Số lượng dự án cấp phép cho cá nhân, tổ chức nước ngoài sở hữu ngày càng nhiều. Tuy nhiên, đến nay, số lượng người nước ngoài mua bất động sản tại Việt Nam chưa đến 1%. Và chỉ một phần nhỏ trong số đó được cấp sổ hồng. Vậy nguyên nhân là do đâu?
1. Số lượng mua nhà chưa đến 1%
Gần đây, Sở xây dựng Hà Nội đã công bố 23 dự án nhà ở cấp phép cho cá nhân, tổ chức nước ngoài sở hữu. Trong đó, có 22 dự án nằm ở quận Long Biên, Hà Đông, Sơn Tây, Gia Lâm,… được công bố vào tháng 6/2020.
Còn theo báo cáo mới đây của Hiệp hội bất động sản TP.HCM (HoREA) thống kê được từ 17 doanh nghiệp và tập đoàn bất động sản, trong 5 năm trở lại đây đã bán được 12,335 căn hộ cho cá nhân, tổ chức nước ngoài.

HoREA cho biết, nếu giả sử 17 doanh nghiệp và tập đoàn bất động sản trên chiếm 70 – 80% thị phần nhà ở bán cho người nước ngoài thì có thể ước lượng số lượng căn hộ đã bán cho người nước ngoài chiếm 0.85% (khoảng 14,800 – 16,000 căn hộ).
Ngoài ra, HoREA cũng cho biết Luật Nhà ở cho phép người nước ngoài có thể mua và sở hữu 1 căn hộ tại các dự án nhà ở thương mại, ngoại trừ các khu vực bảo đảm an ninh, quốc phòng và được quyền sở hữu nhà ở không quá 50 năm.
Tuy nhiên, theo Luật Đất đai năm 2013 quy định, người nước ngoài không được liệt kê trong danh sách những đối tượng có quyền sử dụng đất tại Việt Nam.

Việc này dẫn đến hàng chục nghìn căn hộ đã được bán cho người nước ngoài tại Việt Nam. Và chỉ có UBND thành phố Hà Nội cấp sổ hồng cho người nước ngoài mua căn hộ trên địa bàn thành phố. Số lượng sổ hồng được cấp cũng rất hạn chế.
2. Nhiều vướng mắc chưa được gỡ rối
Theo báo cáo Uỷ ban Đối ngoại của Quốc hội về việc thực hiện pháp luật, chính sách trong công tác quản lý người nước ngoài tại Việt Nam, việc cho phép người nước ngoài mua nhà ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, vướng mắc.
Cụ thể, trong Luật Đất đai 2013 và Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 không có sự thống nhất. Từ đó đã dẫn đến việc người nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam không được xác định rõ có quyền sử dụng đối với diện tích đất được dùng để xây nhà ở đó hay không. Như trong Luật Đất đai 2013, người nước ngoài không có quyền sử dụng đất dùng để xây nhà ở. Nhưng theo khoản 1, điều 19 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, việc mua bán nhà, công trình xây dựng phải gắn với quyền sử dụng đất.

Bên cạnh đó, quy định về thời hạn sở hữu căn hộ cho người nước ngoài cũng có nhiều bất cập. Số lần người nước ngoài mua nhà được gia hạn chỉ là hình thức. Việc này dẫn đến họ rất quan ngại khi quyết định mua nhà tại Việt Nam.
Một bất cập nữa còn được thể hiện tại khoản 2, Điều 76, Nghị định 99/2015/NĐ-CP. Đó là, cá nhân, tổ chức nước ngoài chỉ được xác lập sở hữu trong địa bàn có dự án nhà ở thông qua 3 hình thức giao dịch là:
- Mua nhà trực tiếp từ chủ đầu tư bằng hợp đồng mua bán
- Mua nhà từ cá nhân, tổ chức nước ngoài đã được cấp giấy chứng nhận
- Nhận thừa kế, tặng/cho của cá nhân, hộ gia đình hoặc tổ chức trong số lượng quy định trong địa bàn

Cũng vì câu chữ của Luật nhà ở mà dẫn đến việc người nước ngoài hiểu rằng, họ chỉ được mua nhà ở đã cấp giấy chứng nhận và nhà từ chủ đầu tư. Không được là đối tượng nhận chuyển nhượng lại hợp đồng mua bán nhà ở sẽ được hình thành trong tương lai như hiện nay.
Hiện nay, tỷ lệ người nước ngoài mua nhà ở Việt Nam khá thấp. Nếu muốn tỷ lệ này tăng cao hơn, chúng ta nên học hỏi Úc và Singapore. Đây là các quốc gia cho người nước ngoài mua nhà một cách rất dễ dàng, họ chỉ cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện và yêu cầu về thuế là đủ.
Lank Chu – Ban biên tập Quản lý Bất động sản